Xem lại cách xuất khẩu lao động

(ANTĐ) – Viện Khoa học lao động và xã hội vừa có đợt khảo sát “Đánh giá thực trạng lao động đi làm việc có thời hạn theo hợp đồng đã trở về Việt Nam” được thực hiện vào năm 2010 – 2011. Kết quả cho thấy, phần lớn người đi xuất khẩu lao động có thu nhập cao hơn, nhưng khi về nước, nhiều người vẫn phải đối mặt với thách thức về trả nợ và tìm việc mới.

 

 

Thu nhập cao, tích lũy ít

Khảo sát trên 1.500 lao động Việt Nam đã đi lao động ở nước ngoài trở về cho thấy, khoảng 90% số người lao động trở về có tích lũy. So với trong nước, khi đi làm việc ở nước ngoài lương của những lao động này đã tăng gấp nhiều lần. Ví dụ như lao động làm việc ở thị trường Nhật Bản có mức lương cao gấp 7 lần, làm việc ở Hàn Quốc lương gấp 9,5 lần, ở Đài Loan (Trung Quốc) cao hơn 9 lần, Malaysia cao hơn 3,9 lần. Còn tính thu nhập theo thị trường thì Nhật Bản cao nhất, tiếp đến là Hàn Quốc, Đài Loan và Malaysia. Nhờ đó, có đến 88,9% số người được hỏi khẳng định có tích lũy từ xuất khẩu lao động. Bên cạnh đó, mức tích lũy cao và ổn định nhất thuộc về thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc, thấp nhất là Malaysia. Cụ thể, mức tích lũy bình quân của người lao động làm việc đủ 3 năm ở Nhật Bản là 312 triệu đồng/người, Hàn Quốc 243 triệu đồng/người, Đài Loan 145 triệu đồng/người và Malaysia 51 triệu đồng/người.

Dù có tích lũy, nhưng theo phần lớn người lao động số tiền ấy chủ yếu để giải quyết các nhu cầu cấp bách của gia đình như: trả nợ phát sinh từ trước hoặc trong quá trình đi xuất khẩu lao động (chiếm 34,37% tổng số tiền tích lũy); xây dựng, sửa chữa nhà cửa (28,49%) và mua sắm đồ đạc trong gia đình (10,59%). Việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư cho học hành rất hạn chế, chỉ chiếm tương ứng khoảng 8,79% và 3,67% tổng tiền tích lũy.

Cũng vì thế, đã diễn ra tình trạng người lao động không trả được nợ sau khi về nước. Ngoài ra, một số lao động phải giải quyết rủi ro của gia đình nên cũng chưa đủ tiền để trả nợ. Đáng quan tâm hơn là một số lao động trẻ thiếu ý thức tiết kiệm nên không có tích lũy. Một nguyên nhân nữa là do phần lớn người lao động phải chi cho việc để được đi xuất khẩu cao hơn so với mức quy định chung, chưa kể nhiều người phải chi trả một khoản không nhỏ cho môi giới tư nhân (38%).

Khó tìm việc sau khi về nước

Theo đánh giá, so với công việc trước khi đi xuất khẩu, cơ cấu việc làm trong công việc hiện tại của người lao động khi về nước đã có sự chuyển dịch tích cực, tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm 18,4% (từ 57,48% xuống còn 39,08%). Về cơ cấu theo hình thức việc làm, tỷ lệ lao động làm công ăn lương tăng lên gần 10% (từ 31,78% lên 40,8%). Theo vị thế việc làm, tỷ lệ lao động giản đơn giảm 13,7% (từ 71% xuống còn 57,3%). Như vậy, dù phần lớn lao động sau khi về nước có việc làm ngay (80,6%), nhưng chất lượng việc làm còn thấp, đại bộ phận làm các công việc lao động giản đơn. Phần không nhỏ lao động vẫn gặp khó khăn trong tìm việc sau khi về nước do thiếu thông tin về việc làm và thị trường lao động…

Ông Nguyễn Thanh Hòa, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH cho biết, mỗi năm nước ta xuất khẩu khoảng 80.000 – 85.000 lao động, cao gấp 2,9 lần so với năm 2000, tuy nhiên so với các nước trong khu vực thì con số này vẫn còn rất hạn chế. Hiện có hơn 500.000 lao động Việt Nam đang lao động tại hơn 40 nước trên thế giới, vấn đề là ý thức của đội ngũ lao động xuất khẩu chưa cao, càng làm việc ở thị trường tốt thì càng nảy sinh nhiều vấn đề. Trong đó, nhức nhối nhất là tình trạng lao động hết hạn hợp đồng vẫn ở lại bất hợp pháp không chịu về nước, những người trở về nước thì tâm lý chung lại muốn đi tiếp.

Ông Hòa nhấn mạnh, phải xem xét lại cách làm xuất khẩu lao động ở nước ta hiện nay xem còn phù hợp không? Phải xem xét thế giới làm xuất khẩu lao động như thế nào? “Thực tế, ý thức của những lao động đi xuất khẩu của các nước trên thế giới rất cao, có những thị trường lao động thu nhập thấp nhưng họ vẫn trụ được, ngay cả khi làm việc ở thị trường thu nhập cao nhưng hết hạn họ vẫn về nước theo đúng quy định. Điều này cần phải nghiên cứu cả quy trình làm xuất khẩu cũng như trợ giúp, hỗ trợ người lao động sau khi đi xuất khẩu trở về hòa nhập lại cuộc sống trong nước” – ông Hòa phân tích.

(VanThanh)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *